Tin Vinavetco

Tin tức

Bệnh Mycoplasma synoviae (M.S) ở gia cầm

 (Mycoplasma synoviae

Mycoplasma là sinh vật sống tự do nhỏ nhất cả về kích thước và số lượng gen, và không giống như nhiều loại vi khuẩn khác, chúng không có thành tế bào. Có hai loài Mycoplasma, Mycoplasma gallisepticum (MG) và Mycoplasma synoviae (MS) gây bệnh ở gà. MG thường là loài gây bệnh (CRD) nhiều hơn và gây ra thiệt hại kinh tế lớn.

Nhiễm trùng M.Synoviae có thể xảy ra ở gà và gà tây tây lúc 10 – 20 tuần tuổi kèm viêm màng hoạt dịch và/hoặc viêm túi khí cho nên bệnh này còn có tên gọi là “Bệnh viêm màng hoạt dịch truyền nhiễm”. Bệnh xảy ra ở hầu hết các quốc gia sản xuất gia cầm, đặc biệt là ở đàn gà mái đẻ thương phẩm thuộc nhiều lứa tuổi. Bệnh lây lan nhanh trong đàn và giữa các chuồng trong trang trại với mức độ bệnh khác nhau và tỷ lệ tử vong dưới 10%.

Nguyên nhân

Bệnh viêm màng hoạt dịch truyền nhiễm ở gà là một bệnh do vi khuẩn M. Synoviae gây ra. Bệnh này gây ra nhiều loại tổn thương khác nhau cho khớp, gân, mô, cơ quan và hệ hô hấp cho nên bà con còn gọi bệnh này là “Gà viêm khớp do M.S”. Trước đây, bệnh này được coi là bệnh ảnh hưởng đến màng hoạt dịch của khớp và gân, nhưng hiện nay đang trở nên phổ biến hơn ở các đàn gà nhiều lứa tuổi, gây bệnh đường hô hấp trên. Gia cầm có thể bị nhiễm bệnh và vẫn khỏe mạnh cho đến khi bị stress, sau đó gây ra các triệu chứng toàn thân hoặc là biến chứng của viêm túi khí khi đồng nhiễm với bệnh Newcastle hoặc Viêm phế quản truyền nhiễm (IB). Bệnh đường hô hấp mãn tính do các bệnh nhiễm trùng hỗn hợp này có thể trở nên trầm trọng, đặc biệt là trong điều kiện môi trường bất lợi như lượng amoniac cao, nhiệt độ lạnh và bụi. Những loài gia cầm bị nhiễm M. Synoviae có thể phản ứng mạnh hơn với vacxin ND và IB sống. M. Synoviae có liên quan đến quá trình sinh bệnh của viêm phúc mạc lòng đỏ trứng do E. coli gây ra ở gà đẻ.

Sưng khớp cổ chân (khớp hock) do viêm bao gân và dịch tiết do một số chủng M. synoviae gây ra. Những tổn thương này thường dẫn đến tình trạng gà bệnh đi khập khiễng.

Nhiễm trùng tự nhiên ở gà đã được quan sát thấy sớm nhất là lúc 1 tuần tuổi, nhưng nhiễm trùng cấp tính thường thấy khi gà được 4 – 16 tuần tuổi và gà tây được 10 – 24 tuần tuổi. Nhiễm trùng cấp tính đôi khi xảy ra ở gà trưởng thành. Nhiễm trùng mãn tính theo sau giai đoạn cấp tính và có thể kéo dài trong suốt cuộc đời của đàn gà. Giai đoạn mãn tính có thể thấy ở gà thuộc mọi lứa tuổi và ở một số đàn có thể không có nhiễm trùng cấp tính trước đó (McMullin 2020).

Đường lây truyền

M. synoviae có thể lây truyền qua gà, gà tây, gà hoang dã hoặc chuột.

– Lây truyền theo chiều dọc từ gà mái sang gà con (qua trứng) và giữa các loài gà ở mọi lứa tuổi trong đàn.

– Lây truyền trực tiếp qua phân, các giọt khí dung giữa các loài gà qua mắt hoặc đường hô hấp trên.

– Lây truyền gián tiếp giữa các đàn qua các vật trung gian (giày dép, quần áo, dụng cụ chăn nuôi,…).

M. synoviae có khả năng lây truyền trong môi trường trong vài ngày.

Hình 1. Cách lây truyền của M.synoviae ở gia cầm (Kaboudi và Jbenyeni 2019).

Triệu chứng

Thời gian ủ bệnh 11 – 21 ngày. Tỷ lệ nhiễm bệnh M.synoviae ở gà cao nhưng tỷ lệ chết thấp. Các triệu chứng chung bao gồm:

– Gà bệnh lờ đờ, mất nước và gầy gò.

– Giảm cảm giác thèm ăn.

– Lông xù và mào co lại.

– Còi cọc.

– Tiêu chảy phân xanh.

– Mào nhợt nhạt hoặc xanh nhạt.

– Xuất hiện mụn nước ở ngực.

– Giảm sản lượng trứng.

– Chất lượng trứng kém, vỏ ở đầu bé mỏng và xốp hơn (2.A), có nhiều trứng vỡ và nứt hơn.

– Các khớp cổ chân và đệm bàn chân chủ yếu bị ảnh hưởng (2.B), nhưng ở một số loài gà, hầu hết các khớp đều bị viêm sưng (2.C). Đôi khi người ta thấy gà bị nhiễm trùng toàn thân nhưng không thấy sưng khớp.

– Tích nước ở khớp cổ chân.

– Đi lại khó khăn, đi khập khiễng.

– Viêm khí quản nhẹ, viêm xoang hoặc viêm túi khí biểu hiện tiếng ran nhẹ trong 4 – 6 ngày hoặc có thể không có triệu chứng (thường thấy kết hợp với bệnh Newcastle hoặc IB).

A. Vỏ đầu bé mỏng. B. Đệm bàn chân sưng. C. Khớp xương bàn chân sưng.

Hình 2. Gà bệnh M.synoviae (Sưu tầm).

Bệnh tích

– Các khớp và bao gân có dịch tiết màu xám đến vàng nhớt (3.A).

– Một số chủng có thể dẫn đến bệnh lắng đọng chất amyloid.

– Gan, lá lách và thận bị sưng đã từng được phát hiện trong quá khứ nhưng hiện không phổ biến.

– Gan sưng to có màu xanh lục (3.B).

– Dịch tiết trở thành bã đậu sau đó.

– Viêm bao hoạt dịch xương ức

 

(3.C).

– Viêm túi khí thường ở gà thịt.

 

A. Dịch khớp viêm có màu vàng nhớt. B. Gan sưng to màu xanh lục. C. Viêm bao hoạt dịch xương ức.

Hình 3. Bệnh tích gà bệnh M.synoviae (Sưu tầm).

Chẩn đoán

Xét nghiệm huyết thanh máu để tìm kháng thể M.synoviae cụ thể với kháng nguyên M.synoviae và phát hiện các tổn thương cụ thể là dấu hiệu của nhiễm trùng M.synoviae. Việc phân lập được các vi sinh vật gây bệnh M.synoviae là dấu hiệu chắc chắn để đưa ra chẩn đoán cuối cùng.

Chẩn đoán phân biệt

Viêm khớp do tụ cầu cũng có thể gây sưng khớp với dịch tiết dạng kem đôi khi lan vào bao gân. Nhiễm trùng do Reovirus cũng có thể gây sưng khớp và bao gân, nhưng dịch tiết loãng hơn hoặc có màu máu. Nhiễm trùng M.Gallisepticum, Ornithobacterium rhinotracheale (ORT), bệnh đường hô hấp do virus với bệnh Colibacillosis.

Điều trị

Hộ lý:

– Xử lý xác gia cầm chết một cách hiệu quả và kịp thời.

– Không được tiếp xúc với gia cầm lân cận.

– Sát trùng tiêu độc chuồng và khu vực xung quanh bằng một trong các loại thuốc sát trùng sau:

+ FORMACIN. Pha 350 ml thuốc trong 100 lít nước sạch, tuần phun 1 đến 2 lần.

+ VINADIN. Pha 20 – 25 ml/ 10 lít nước. Phun đều lên các bề mặt của chuồng trại và dụng cụ. Sau 5 – 7 ngày phun lại lần nữa.

+ B.K.VET. Pha 33 – 40 ml thuốc trong 10 lít nước sạch, phun đều lên chuồng và nền chuồng cho đủ ướt. 1 lít phun 2 – 3 m2 nền chuồng sau khi dọn vệ sinh sạch. Ngày phun 1 – 2 lần, liên tục 3 – 5 ngày hoặc cho đến khi hết dịch.

+ VINA SAFE PLUS. Pha 1 lít thuốc trong 100 lít nước, phun ướt đều lên các bề mặt như tường, sàn nhà, trang thiết bị.

+ Kết hợp rắc vôi bột ở đường đi và xung quanh trại, vườn thả gà.

– Sử dụng chế phẩm MEN BẢO TỬ CAO CẤP (1 g/1 – 2 lít nước hoặc 1 kg/1 tấn thức ăn) hoặc MEN VI SINH RẮC CHUỒNG Balasa VN (dùng 1 kg men xử lý chuồng trại trộn đều với 1 kg bột ngô hoặc cám gạo, bột sắn hay bột ngô rồi rắc đều lên bề mặt đệm lót có diện tích 50 m2). Dùng liên tục 10 ngày/hoặc lâu hơn để khử mùi hôi, ức chế vi sinh vật gây bệnh, trong đó có khí độc amoniac trong chuồng nuôi.

Dùng thuốc:

– Cho cả đàn uống/ăn một trong các loại kháng sinh sau: LINCO-SPEC (1 g/15 – 20 kg thể trọng/ngày, tương ứng với 1 g/2 – 4 lít nước hoặc 1 g/1 – 2 kg thức ăn), VINA-TILMO 25% (1 ml/15 kg thể trọng/ngày, tương ứng với 1 ml/3 lít nước uống), TYLOSIN TARTRATE 98% (1 g/20 kg thể trọng/ngày, tương ứng với 1 g/2 – 4 lít nước uống hoặc 1 g/1 – 2 kg thức ăn) hoặc VINA-ENRO 20% (1 ml / 4 lít nước uống), liên tục trong 5 ngày để diệt vi khuẩn.

VINA-PARA C Max (1 g/3 lít nước uống hoặc 1 g/30 kg thể trọng/lần) hoặc VINA-PARA C Max (1 g/1,5 lít nước uống hoặc 1 g/15 kg thể trọng/lần), 2 – 3 lần/ngày trong 3 – 5 ngày để giảm đau hạ sốt.

Chú ý:

Con ốm nặng có thể tiêm thêm một trong các loại kháng sinh sau: SPECTILIN, PNEUMOTIC, TYLOSIN 10%, LINCOMYCIN (1 ml/2,5 kg thể trọng), LINCOSEP (1 ml/5 kg thể trọng) hoặc GENTATYLODEX (1 ml/10 kg thể trọng), ngày một lần trong 3 – 5 ngày.

Phòng bệnh

Mặc dù M.synoviae ít phổ biến hơn so với họ hàng của nó là M.Gallisepticum, nhưng các chiến lược phòng ngừa vẫn giống nhau:

– Mua gà từ đàn không có M.synoviae.

– Thực hiện quản lý đàn toàn diện.

– Tuân thủ chăn nuôi an toàn sinh học nghiêm ngặt.

– Giảm thiểu stress trong đàn gà.

– Cách ly gà mới nhập trong vòng 30 ngày.

– Giảm thiểu tiếp xúc với gà hoang dã và động vật gặm nhấm (giữ thức ăn bên trong chuồng, thu dọn thức ăn rơi vãi).

– Tích cực diệt chuột trong chuồng và khu vực chăn nuôi.

– Vacxin phòng bệnh M.synoviae không được cung cấp rộng rãi.

– Định kỳ sát trùng chuồng và khu vực chăn nuôi bằng một trong các loại thuốc khử trùng kể trên.

– Khi đàn gà đang bị nhiễm M.synoviae không được tiêm vacxin sống phòng bệnh ND và IB.

Biên soạn: CVKT/Dr. Trần Văn Bình

Vinavetco
0865.767.286