BỆNH THƯƠNG HÀN Ở GÀ ĐẺ (Salmonellosis in Laying Hens)
Nguyên nhân
Salmonella là một loài vi khuẩn được biết đến là nguyên nhân gây bệnh ở nhiều loại động vật do các chủng khác nhau của nó. Các huyết thanh di động có thể gây ra các bệnh nhiễm trùng không đặc hiệu ở gia cầm, liên quan đến các bệnh do thực phẩm ở người.
Bệnh xảy ra sau khi vi khuẩn salmonella xâm nhập vào cơ thể gia cầm. Trong chăn nuôi gia cầm có 3 loại nguy hiểm:
– Salmonella enteritidis; Đây là loài vi khuẩn gây ruột, gan, cơ quan sinh sản; loại vi khuẩn này phổ biến nhất;
– Salmonella gallinarum-pulorum. Đây là vi khuẩn gây bệnh bạch lỵ (BPD) ở gà, gây tử vong hàng loạt ở gia súc non. Trong đó S.Gallinarum gây ra một dạng bệnh bạch lỵ, cần phải điều trị ở gà nhưng được coi là vô hại đối với gà trưởng thành và con người.
– và Salmonella typhimurium. Loài vi khuẩn này cư trú ở gan và ống dẫn trứng, xâm nhập vào trứng, gây chết phôi, thoái hóa buồng trứng và giảm tỷ lệ ở gà mái.
Salmonella có khả năng phục hồi cực kỳ tốt. Chúng tồn tại an toàn ở nhiệt độ từ +7°С đến +45°С. Trong tủ lạnh, nó không những không chết mà còn sinh sôi nảy nở.
Độ dày của thịt có thể giúp vi khuẩn chịu được luộc trong vài giờ. Mặc dù nhiệt độ từ +70°С có hại cho nó. Vi khuẩn thương hàn tồn tại:
– 3 tháng ở bụi phòng;
– 4 tháng ở vùng biển khơi;
– 6 tháng đối với thịt, xúc xích, bơ;
– 10 ngày trong sữa;
– Khoảng 1 năm trong trứng;
– Trên vỏ lên đến 24 ngày;
– Hơn 1 năm trong thịt đông lạnh;
– 4 – 5 tháng trong phân gà bệnh;
– Lên đến 7 tháng trong vùng nước thoáng;
– và đến 1 năm trong đất.
Vi khuẩn Salmonella lây truyền theo chiều dọc và chiều ngang giữa các loài gia cầm là con đường lây nhiễm chính, nhưng nó cũng có thể xảy ra thông qua con người, các vật trung gian sinh học (động vật gặm nhấm, chim hoang dã, côn trùng hút máu, bọ ve, giun, ruồi, nhặng), qua dụng cụ chăn nuôi, chất độn chuồng, thức ăn, nước uống. Trong điều kiện trang trại gia cầm, nhiễm trùng qua không khí có thể xảy ra (Hình 1).
Hình 1. Đường lây nhiễm Salmonella trên gia cầm (Sưu tầm).
Vi khuẩn Salmonella có gây nguy hiểm cho con người không?
Gia cầm bị nhiễm khuẩn salmonella có thể trở thành nguồn lây nhiễm cho con người, và ngược lại người bệnh thương hàn cũng gây bệnh cho gia cầm. Các sản phẩm gia cầm làm thực phẩm gồm thịt, trứng có thể gây nhiễm độc nặng, nói một cách đơn giản là ngộ độc thực phẩm. Theo WHO, trong số các bệnh nhiễm trùng phổ biến ở người và động vật, bệnh nhiễm khuẩn salmonella không có gì sánh bằng về mức độ phức tạp của bệnh và các vấn đề trong việc loại bỏ nó. Một trong những nguyên nhân gây ra những khó khăn đó là do sự đa dạng của các tác nhân lây nhiễm – vi khuẩn Salmonella. Có hơn 2.300 biến thể, trong đó khoảng 230 biến thể ở gia cầm và 700 biến thể ở người. Một khó khăn nữa đối với các bác sĩ là bệnh nhiễm khuẩn salmonella ở gà thường không có triệu chứng. Salmonella, là cư dân của đường ruột, có thể bám vào vỏ trứng và thịt trong quá trình giết mổ, nếu bảo quản không đúng cách và chế biến nông sản không đảm bảo vệ sinh, có thể dẫn đến ngộ độc hàng loạt nghiêm trọng cho người tiêu dùng. Nhiễm trùng do tiếp xúc giữa những người bệnh với nhau xảy ra trong 90 – 100% trường hợp.
Ở người, bệnh ảnh hưởng đến dạ dày và ruột non và biểu hiện dưới dạng ngộ độc cấp tính. Thời gian ủ bệnh kéo dài 24 – 48 giờ.
Bệnh bắt đầu bằng buồn nôn và nôn, kèm theo tình trạng nhiễm độc toàn thân, sốt cao và tiêu chảy nặng, có thể dẫn đến mất nước.
Bạn có thể phân biệt bệnh nhiễm khuẩn salmonella với ngộ độc thông thường bằng quan sát thấy phân sủi bọt, màu xanh lục lẫn nhầy, mà các bác sĩ đã đặt cho cái tên quen thuộc là “bùn đầm lầy”.
Bệnh đặc biệt nguy hiểm với trẻ em, người già và những người có hệ miễn dịch yếu. Kích thích cục bộ ở ruột và dạ dày có thể gây viêm đường tiêu hóa dẫn đến ngộ độc nguy hiểm (Hình 2).
Ở những người có hệ thống miễn dịch mạnh, các dấu hiệu nhiễm khuẩn salmonella có thể giảm dần trong vòng vài ngày, miễn là họ vẫn nằm trên giường và thực hiện các biện pháp chống mất nước.
Trong những trường hợp nặng, sẽ cần dùng kháng sinh, cũng như thuốc chống tiêu chảy và men tiêu hóa để khôi phục hệ vi sinh đường ruột có lợi.
Bởi vậy mọi người tuyệt đối không được ăn thức ăn ôi thiu, thức ăn để trong tủ lạnh lâu ngày, thực phẩm quá hạn sử dụng, thịt gia súc gia cầm bệnh, đặc biệt thực phẩm sống (hải sản, gỏi cá, cua, trứng,…).
Hình 2. Người nhiễm bệnh Salmonella (Sưu tầm).
Triệu chứng
Đối với nhiễm trùng qua đường tiêu hóa (qua thức ăn, nước uống) thời gian ủ bệnh khoảng 7 ngày. Tốc độ phát triển của bệnh phụ thuộc vào khả năng miễn dịch của gà cũng như mức độ lây nhiễm.
Gà bệnh trở nên lờ đờ, bỏ ăn, lười vận động, ngồi tách biệt với các cá thể khác. Bệnh có thể kèm theo tiêu chảy màu trắng xanh lẫn bọt, chất nhầy. Mất nước và bỏ ăn dẫn đến kiệt sức, thức ăn thực tế không được tiêu hóa. Gà bệnh chảy nước mắt và mũi, khó thở kèm theo tiếng thở khò khè. Một số gà bị viêm khớp nên đi khập khiễng (3.A).
Salmonella lây nhiễm vào hệ thống sinh sản của gà gây viêm buồng trứng và ống dẫn trứng. Ở gà đẻ, tỷ lệ đẻ trứng giảm mạnh. Bệnh có thể dẫn đến viêm phúc mạc lòng đỏ, trong đó lòng đỏ không di chuyển vào ống dẫn trứng mà đi vào khoang bụng. Trứng màu nâu (3.C).
Đối với gà lớn (gà đẻ) có miễn dịch cao, bệnh thường không có triệu chứng và nhanh chóng trở thành mãn tính. Những cá thể này rất nguy hiểm vì chúng trở thành vật mang trùng suốt đời.
A. Khớp bàn chân sưng to.
B. Trứng gà khỏe.
C. Trứng gà bệnh thương hàn
Hình 3. Gà bệnh thương hàn (Sưu tầm).
Bệnh tích
Trong quá trình nhiễm S. typhimurium, phôi bị viêm màng vitelline và màng đệm. Gan to gấp 1,5 lần, xuất hiện các nốt hoại tử màu trắng xám, thoái hóa (4.A). Ở dạng bệnh quá cấp (nhiễm độc huyết), gan to, lách tăng sản, viêm phổi dạng cata, viêm ruột tiết dịch, niêm mạc ruột có nhiều nốt loét (4.B), sung huyết các cơ quan nhu mô. Gà đẻ bị tổn thương ống dẫn trứng và buồng trứng (4.C). Một số con bị sưng khớp nên đi khập khiễng.
A. Gan sưng có nhiều đốm hoại tử.
B. Ruột viêm có nhiều nốt loét.
C. Buồng trứng viêm và thoái hóa.
Hình 4. Buồng trứng gà bệnh thương hàn (Sưu tầm).
Chẩn đoán
Các phát hiện lâm sàng của các bệnh này có thể chỉ ra sự xuất hiện, nhưng các kỹ thuật xét nghiệm là hoàn toàn cần thiết để chẩn đoán. Phương pháp lựa chọn các huyết thanh Salmonella này là phân lập mầm bệnh trong các cơ quan, phân tươi hoặc các cơ quan/tăm bông hậu môn, sau đó là phân loại sinh hóa. Khi có sẵn, các kỹ thuật phân tử (PCR, RFLP, các kỹ thuật khác) cũng có thể được sử dụng, cung cấp khả năng phát hiện nhanh chóng và bổ sung cho việc phân lập.
Các xét nghiệm huyết thanh học (SAR, ELISA, khuếch tán miễn dịch, các kỹ thuật khác) có thể hữu ích để sàng lọc phơi nhiễm của đàn gia cầm với các huyết thanh Salmonella này, nhưng việc phân lập luôn được khuyến nghị để xác định tính đặc hiệu của tác nhân và tình trạng nhiễm trùng.
Chẩn đoán phân biệt
Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh colibacillosis, viêm xoang truyền nhiễm, viêm gan, bệnh cầu trùng, bệnh tụ huyết trùng và bệnh bạch lỵ.
Điều trị
Bệnh thương hàn ở gà đẻ rất khó điều trị vì vi khuẩn thường kháng thuốc kháng sinh và bệnh diễn biến mãn tính. Việc điều trị bệnh không hiệu quả về mặt chi phí nên vật nuôi bị bệnh sẽ bị loại không làm gà giống.
Hộ lý:
– Tiêu hủy những cá thể bệnh nặng.
– Loại trừ thức ăn (bột cá, bột xương thịt,…) và nguồn nước nghi bị nhiễm Salmonella.
– Loại bỏ các vật rẻ mau hỏng vì đấy là nơi chứa mầm bệnh.
– Thay chất độn chuồng mới đảm bảo vệ sinh. Sử dụng MEN VI SINH RẮC CHUỒNG Balasa VN rắc trên đệm lót chuồng. Sau 7 – 10 ngày đối với gà vịt nuôi úm, sau 2 – 3 ngày đối với gà vịt lớn, quan sát thấy khi nào phân rãi khắp trên bề mặt chuồng, thì dùng 1 kg Men xử lý chuồng trại trộn đều với 1 kg bột ngô, cám gạo hoặc bột sắn, sau đó rắc đều lên 50 m2 bề mặt đệm lót. Cứ sau vài ngày cào nhẹ bề mặt đệm lót một lần để vùi phân và thông thoáng đệm lót. Định kỳ 2 – 4 tuần rắc một lần tùy theo lượng phân nhiều hay ít để khử mùi hôi, hấp thụ khí độc, ức chế vi sinh vật gây bệnh trên vật nuôi, phân hủy nhanh các chất hữu cơ.
– Sát trùng tiêu độc chuồng và khu vực xung quanh bằng một trong các loại thuốc sát trùng sau:
+ FORMACIN. Pha 350 ml thuốc trong 100 lít nước sạch, 1 – 3 ngày phun một lần.
+ VINADIN. Pha 20 – 25 ml/ 10 lít nước. Phun đều lên các bề mặt của chuồng trại và dụng cụ. Sau 5 – 7 ngày phun lại lần nữa.
+ B.K.VET. Pha 33 – 40 ml thuốc trong 10 lít nước sạch, phun đều lên chuồng và nền chuồng cho đủ ướt. 1 lít phun 2 – 3 m2 nền chuồng sau khi dọn vệ sinh sạch. Ngày phun 1 – 2 lần, liên tục 3 – 5 ngày hoặc cho đến khi hết dịch.
+ VINA SAFE PLUS. Pha 1 lít thuốc trong 100 lít nước, phun ướt đều lên các bề mặt như tường, sàn nhà, trang thiết bị.
+ Kết hợp rắc vôi bột ở đường đi và xung quanh trại, vườn thả gà.
Dùng thuốc:
– VINA-ENRO 20% (1 ml/4 lít nước uống) hoặc VINA-NORFLO 20% (1 ml/10 kg thể trọng/ngày, tương ứng với 1 ml/2 lít nước hoặc 1 g/kg thức ăn) liên tục trong 5 ngày để diệt vi khuẩn.
– với ĐIỆN GIẢI + BCOMPLEX, 1 g/3 – 5 kg thể trọng/ngày, tương ứng với 1 g/1 lít nước uống hoặc 2 g/1 kg thức ăn, liên tục trong 3 – 5 ngày.
– và VINA-CHICKEN LAYER, 1 g/10 kg thể trọng/ngày, tương ứng với 1 g/2 lít nước uống hoặc 1 g/1 kg thức ăn, liên tục 5 – 7 ngày để phục hồi sức đẻ của đàn gà.
Chú ý:
– Hiệu quả cao khi kết hợp tiêm thêm 2 – 3 mũi CẶP KHÁNG SINH GÀ VỊT. Bơm 100 ml GENTATYLODEX vào chai thuốc bột CEFTIOFUR. Tiêm bắp hoặc dưới da ngày một lần, 1 ml/2 – 4 kg thể trọng.
– Sau khi dừng kháng sinh tiếp tục dùng ENZYMBIOSUB, 1 g/5 kg thể trọng/ngày, tương ứng với 1 g/lít nước uống hoặc 2 g/kg thức ăn, liên tục trên 7 ngày hoặc suốt trong quá trình nuôi để ổn định hệ vi khuẩn đường ruột.
– Trong vòng 25 ngày (tốt nhất là trong vòng 30 – 40 ngày) sau khi dùng thuốc kháng khuẩn, trứng và thịt gia cầm không được sử dụng làm thực phẩm cho người.
– Sau khi điều trị ổn định không được nuôi gà với mục đích làm giống vì một số cá thể có thể trở thành vật mang trùng suốt đời truyền mầm bệnh qua trứng, làm cho ổ dịch bùng phát trở lại. Cho nên cần thay đàn gà đẻ mới.
Phòng bệnh
– Hiện tại, chỉ có vacxin phòng bệnh thương hàn ở gia cầm, có thể làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong, nhưng không thể đảm bảo bảo vệ chống lại các bệnh nhiễm trùng. Cách tiếp cận đối với bệnh thương hàn này phải luôn là loại trừ, vì việc điều trị và tiêm vacxin, bằng cách giảm bệnh lâm sàng, cho phép các đàn bị nhiễm bệnh tiếp tục sản xuất và do đó làm bệnh kéo dài.
– Chiến lược tốt nhất để phòng ngừa các bệnh này là áp dụng các biện pháp an toàn sinh học, chẳng hạn như:
+ Không nhập gia cầm từ những người chăn nuôi thả rông;
+ Kiểm soát tiếp xúc trực tiếp/gián tiếp với gia cầm và môi trường bị ô nhiễm;
+ Kiểm soát các tác nhân truyền bệnh và vật trung gian truyền bệnh;
+ Kiểm soát chất lượng thức ăn và nước uống, nước rửa chuồng;
+ Kiểm soát người và phương tiện ra vào trại;
+ Xét nghiệm định kỳ đối với gia cầm và cách ly/loại bỏ đàn gia cầm bị nhiễm bệnh;
– Áp dụng các biện pháp vệ sinh tiêu độc trong chuồng và lò ấp, khử trùng trứng và kiểm tra phòng bệnh cho đàn gia cầm là rất quan trọng.
– Sát trùng trứng (nhúng trứng) trước khi ấp: FORMACIN, Pha 100 ml thuốc trong 100 lít nước sạch.
– Thực hiện tốt quy trình dùng vacxin và thuốc phòng bệnh cho đàn gà.
– Định kỳ hàng năm khám sức khỏe cho nhân viên trang trại gia cầm, bao gồm xét nghiệm các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp và đường ruột. Những người nhiễm bệnh không được tham gia nuôi gà.